Hội thảo tưởng niệm: “Võ Quý Huân - Người trí thức nặng tình non nước”

12/11/2011
Ngày 12-11, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bộ Công thương và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã tổ chức Hội thảo tưởng niệm: “Võ Quý Huân - Người trí thức nặng tình non nước” và lễ truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho Kỹ sư Võ Quý Huân.

Kỹ sư Võ Quý Huân (1912-1967), quê gốc ở huyện Thanh Chương (Nghệ An) nhưng sinh tại Đà Nẵng, sang Pháp học tập và sinh sống, ham học và xuất sắc, ông đã có ba bằng kỹ sư tại Pháp: cơ điện, đúc - luyện kim và kỹ nghệ chuyên nghiệp. Ông tích cực hoạt động trong cộng đồng Việt kiều tại Pháp và là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp từ năm 1939.

Kỹ sư Võ Quý Huân là một trong bốn trí thức cùng về nước với Chủ tịch Hồ Chí Minh sau chuyến thăm Pháp của Người (tháng 9- 1946): bác sĩ Trần Hữu Tước; các kỹ sư: Trần Đại Nghĩa, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh - là những nhà chuyên môn giỏi thuộc các ngành cần thiết nhất với cuộc kháng chiến của dân tộc. Theo lời kêu gọi của Tổ quốc, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỹ sư Võ Quý Huân để lại gia đình nhỏ của mình ở Pa-ri để dấn thân cho sự nghiệp kháng chiến và xây dựng đất nước.

Kỹ sư Võ Quý Huân được nhắc đến là chuyên gia hàng đầu trong ngành đúc luyện kim và công nghiệp Việt Nam phục vụ chiến đấu trong kháng chiến và xây dựng đất nước thời bình. Ông là “cha đẻ của lò cao kháng chiến”, cho ra lò những mẻ gang thép đầu tiên cung cấp cho ngành quân giới. Ông cũng là người đặt nền móng cho sự nghiệp đào tạo ngành đúc - luyện kim và công nghiệp cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Kỹ sư Võ Quý Huân là một trong những người tiêu biểu của “thế hệ vàng” những trí thức gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thế kỷ XX. UBND Tp. Hà Nội đã ra Nghị quyết đặt tên Võ Quý Huân cho một đường phố Hà Nội - con đường nằm cạnh Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội hiện nay.

P.V

Giáo sư Văn Tạo (1926 - 2017) (12/04/2017)

Giáo sư Văn Tạo, tên thật là Nguyễn Xuân Đào, sinh ngày 29 tháng 4 năm 1926, tại La Tỉnh, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, công tác ở Ban Văn Sử Địa từ ngày 8 tháng 12 năm 1953 đến năm 1960, ở Viện Sử học từ năm 1960 đến tháng 12 năm 1999 nghỉ hưu. Công tác Đảng từ năm 1953, Đảng ủy viên Đảng ủy Ủy ban Khoa học Nhà nước (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) 1959-1960.