.jpg)
Tới dự và chỉ đạo hội thảo có đồng chí GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. Tham dự hội thảo có các đồng chí: Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Thượng tướng Lê Huy Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; TS. Phan Chí Hiếu, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; cùng lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo các ban, bộ, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học, đại diện gia đình các thành viên đoàn đàm phán, ký kết và thi hành hiệp định.

Gần 30 báo cáo, tham luận, đề dẫn tại hội thảo của các nhà lãnh đạo, nhà khoa học, nhà nghiên cứu đến từ các cơ quan trung ương và một số địa phương tập trung vào một số vấn đề: Phần I: Những vấn đề chung, như Bối cảnh quốc tế và trong nước dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương (PGS.TS Đinh Quang Hải), Những nhân tố dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương (GS.TS Vũ Dương Huân), Vai trò của các nhân vật nổi bật của Việt Nam trong quá trình đàm phán tại Hội nghị Giơ-ne-vơ (TS. Vũ Thị Thu Giang)… Phần II: Quá trình đàm phán, ký kết và thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, gồm một số báo cáo như: Hiệp định Giơ-ne-vơ và sự đóng góp của đối ngoại nhân dân (Phan Anh Sơn), Toan tính của các cường quốc tại Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954 (PGS.TS Hoàng Chí Hiếu)… Phần III: Bài học kinh nghiệm, ý nghĩa lịch sử của hiệp định Giơ-ne-vơ và vai trò lãnh đạo của đảng trong quá trình đàm phán, ký kết và thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ: Những bài học lịch sử từ Hiệp định Giơ-ne-vơ (TS. Lê Quang Chắn), Ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Giơ-ne-vơ đối với Cách mạng Việt Nam (PGS.TS Nguyễn Danh Tiên), Từ Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 đến Hiệp định Pa-ri năm 1973 và con đường giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (ThS. Nguyễn Văn Biểu viết chung)…

Tại hội thảo, các ý kiến, tham luận tập trung luận giải, khẳng định Hiệp định Giơ-ne-vơ là đỉnh cao thắng lợi của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; làm rõ tầm vóc, ý nghĩa của hiệp định đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới; phát huy giá trị, các bài học kinh nghiệm từ quá trình đàm phán, ký kết hiệp định, qua đó khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ kéo dài gần 100 năm tại Việt Nam, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, đi tới thực hiện trọn vẹn mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta luôn kết hợp khéo léo giữa “đánh” và “đàm”, giữa giành thắng lợi mang tính chiến lược trên chiến trường với giải pháp ngoại giao để bảo vệ nền độc lập và lập lại hòa bình. Chiến dịch Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơ-ne-vơ là một sự kết hợp mẫu mực và điển hình như vậy. Sự phối hợp chặt chẽ giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận chính trị và quân sự, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển hóa những thắng lợi trên chiến trường thành thắng lợi về chính trị, pháp lý và đối ngoại.
.jpg)
.jpg)
Hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” (Lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng), thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Nhờ đó, cùng với các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,... mặt trận ngoại giao luôn luôn đóng vai trò trọng yếu trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, góp phần tạo nên những thắng lợi hết sức to lớn, làm rạng rỡ lịch sử của dân tộc.

Đặc biệt, vai trò đó được thể hiện trong việc “vừa đánh, vừa đàm”: từ đàm phán, bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, lúc mới thành lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945; đàm phán, ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954, góp phần giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến đàm phán, ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam năm 1973, tạo tiền đề để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối. Và từ đó, “đối ngoại đã trở thành một mặt trận tạo lối, mở đường, đi đầu từng bước phá thế bị bao vây, cấm vận, khơi thông quan hệ với nhiều đối tác, mở ra cục diện mới cho công cuộc đổi mới, hội nhập, xây dựng và bảo vệ đất nước” (Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng và phát triển nến đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.149-150).