Sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc dân tộc Việt không bị đồng hóa bởi các thế lực phương Bắc, mà ngược lại, vẫn giành được độc lập, tự chủ, do đó, chúng ta vẫn cần phải giải thích hiện tượng này sâu xa hơn mới thật sự thỏa đáng. Chúng ta giải thích quá trình giành độc lập và củng cố nền độc lập đó như hiện nay cũng là chưa đủ.

Trước hết, chúng ta phải hiểu đây là quá trình không thể một chốc lát giải quyết xong tất cả mọi vấn đề, ví dụ khi chúng ta mất chủ quyền, thì lãnh thổ của nước Âu Lạc được chia thành quận huyện, nhập vào một thực thể hành chính lớn hơn, trước kia là Giao Châu, sau đó là An Nam đô hộ phủ... thì điều này người ta gọi là giải cấu trúc-tức là cấu trúc của một quốc gia không còn, mình chỉ là một bộ phận trong môt thực thể hành chính lớn hơn, để họ đồng hóa một cách ráo riết.
Sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, chúng ta giành lại được độc lập, và có vẻ như chúng ta đã đơn giản hóa vấn đề này, theo nghĩa là chúng ta đã giành độc lập đâu đó, sau năm 938, và rồi có một quốc gia thống nhất, sau đó lại cát cứ và dẹp cát cứ... không phải như vậy, vì quá trình đồng hóa hơn 1.000 năm hoàn toàn không phải đơn giản, thực tế cho thấy, chỉ cần qua một vài đời, thì sự biến đổi đã khác nhiều. Nếu nhận thức đơn giản như vậy, thì chúng ta chưa hiểu hết vị trí của nhà Đinh trong tiến trình lịch sử dân tộc, chưa đánh giá đúng vai trò của Đinh Bộ Lĩnh.
Trong Hội thảo này, vừa có ý kiến phát biểu và phân chia thế kỷ X thành nửa đầu và nửa sau: nửa đầu là giành lại độc lập và nửa sau là củng cố và xây dựng đất nước. Đây là một ý rất hay. Câu chuyện giành lại độc lập theo đúng nghĩa của nó là cả một quá trình, và quá trình đó là gần một thế kỷ. Từ năm 905, Khúc Thừa Dụ là một hào trưởng, ông đã phải cậy nhờ vào một hệ thống hiện có, nhận chức Tiết độ sứ, cai trị trên các đơn vị hành chính do nhà Đường đặt ra, để rồi từng bước thực thi chính sách độc lập.
Sau khi nghiên cứu kỹ, chúng ta thấy có sự chuyển biến rất mạnh ở cuối thế kỷ IX, đầu thế kỷ X, là ở vùng người Việt sinh sống, xuất hiện một lớp hào trưởng, họ là người đã đem quân giúp sức cho ông Tiết độ sứ từ họ Khúc, đến họ Dương sau và này là họ Ngô. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là do tài thao lược của Ngô Quyền, nhưng cũng là sự hợp sức mạnh của nhân dân các địa phương dưới sự lãnh đạo của các hào trưởng. Ngô Quyền xưng vương là khẳng định sự độc lập về chính trị, nhưng tuyệt đối chưa có một tài liệu nào cho biết chúng ta đã phục quốc theo nghĩa một quốc gia với đầy đủ cương vực, với hệ thống chính quyền đầy đủ... là chưa có.
Cho nên, chúng ta phải đánh giá lại một hiện tượng bấy lâu nay vẫn gọi là loạn 12 sứ quân, tôi không thỏa mãn với cách gọi “Loạn 12 sứ quân” và tôi đề xuất cách gọi là “Cục diện 12 sứ quân”. Họ là những người đã phò giúp Ngô Quyền! Và tại sao lại có dục diện đó? Vì Ngô Quyền chưa có một chính quyền trung ương với tổ chức chặt chẽ của một quốc gia hoàn chính, cho nên chính quyền đó chỉ tồn tại dựa vào uy tín của một cá nhân - Đức Ngô Quyền. Nên đến năm 944, khi Ngô Quyền mất, thì không ai theo Ngô Quyền nữa, trong khi đó, Ngô Xương Xí lại không đủ uy đức, nên họ lại trở về với vai trò là thủ lĩnh địa phương.
Do vậy, ở đây, chúng ta đề cao tài thao lược của Đinh Bộ Lĩnh là đúng, nhưng chúng ta chưa đề cập đúng sự thu phục, cái uy, cái đức để thu phục được các sứ quân, các thủ lĩnh địa phương khác của Đinh Bộ Lĩnh, và đây là điều chúng ta phải nghiên cứu thêm. Hơn nữa, cục diện giai đoạn này không đến mức đánh nhau, đối đầu hay loạn lạc triển miên như chúng ta tưởng.
Có một chi tiết cần được khai thác là, ở thời điểm Đinh Bộ Linh, xuất hiện xu thế thống nhất lan rộng, nó nằm trong suy nghĩ của từng làng, từng người dân. Do đó, nhân dân ủng hộ và đã cộng thêm sức mạnh của Đinh Bộ Lĩnh để chuyển hóa thành hiện thực.
Khi nghiên cứu về Đinh Bộ Lĩnh, đặc biệt là ngày ông lên ngôi hoàng đế, mà sang năm 2018 sẽ kỷ niệm vừa tròn 1.050 năm, thì chúng ta phải thấy được điều này. Đây là sự mở đầu cho việc xây dựng một quốc gia hoàn chỉnh, xây dựng một thiết chế trung ương tập quyền đầu tiên. Và tôi cho rằng, sự kiện này có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc: là đứng thứ hai sau ngày Quốc tổ Hùng Vương-tức là ngày lập nước. Vì sau 1.000 năm Bắc thuộc, chúng ta lại có quốc hiệu thực sự, có cương giới rõ ràng, đặc biệt là xây dựng một thiết chế trung ương tập quyền. Chúng ta đánh giá triều Đinh phải hiểu từ góc độ này, và trên cơ sở đó thì ngày lên ngôi của Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng không đơn thuần là ngày đăng quang của hoàng đế, mà nó còn là một dấu mốc lịch sử quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, nó khẳng định sự cần thiết của một mô hình phát triển và phải khẳng định đây là sự khởi đầu cho việc lập quốc với đầy đủ các yếu tố của một quốc gia độc lập, việc xây dựng một thiết chế trung ương tập quyền hoàn chỉnh, mở đầu cho một mô hình với quy luật phát triển nội tại của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Với những ý nghĩa trên, tôi mạnh dạn nêu ra một ý là sau Hội thảo này, chúng ta đề nghị với lãnh đạo cấp cao, sẽ có một ngày mang tính chất Quốc gia xứng đáng là ngày Quốc lễ - đó là ngày đăng quang của Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng với ý nghĩa mở ra một thời đại mới.
P.V lược ghi